Họ gọi ông là nhà thơ, nhạc sĩ, nhà lý luận phê bình âm nhạc,
nhà báo... tùy từng trường hợp. Thế nhưng bạn bè thân thiết lại hay
trìu mến gọi ông là “tên lê dương” - ám chỉ việc ở bất cứ lĩnh vực nào
nói trên ông cũng có thể “xông trận” và làm tròn vai.
Tranh: Hoàng Tường |
Các
vai ấy, cho dù không lớn, không thật sự nổi bật nhưng nói một cách
không hể quá rằng, nó âm thẩm góp phần tích cực vào đời sống văn nghệ
nước nhà trong suốt mấy chục năm qua. ông là Nguyễn Thụy Kha – thực ra,
nhiều người thích gọi ông một cách giản dị như thế, bởi chỉ cần như thế,
cũng đủ hình dung ra ông rồi.
Dáng người cao to, hoạt ngôn
trong các cuộc “tụ bạ” của giới văn nghệ sĩ. Mà các cuộc tụ bạ như thế,
người ta thích có mặt ông, bởi ông có một trí nhớ tuyệt vời, một “cuốn
từ điển sống” về chuyện làng văn nghệ - những chuyện để người ta “biết
mình, biết người” và trân trọng nhau hơn.
Với tư cách nhiều “nhà”
như thế, nhưng câu chuyện của chúng tôi lại bắt đầu từ nhà doanh nghiệp -
vai ít người biết đến nhất về ông. Hiện Nguyễn Thụy Kha là Giám đốc
Công ty “Hòa hợp TKK”.
Gọi là công ty nghe có vẻ oai, nhưng chỉ
có mình ông giám đốc và ba, bốn người “làm công ăn lương”, số còn lại,
ông huy động bạn bè làm cộng tác viên. Ông nói, phải thành lập công ty
bởi ông cần có tư cách pháp nhân để giao dịch, với lại “làm chẳng hết ý
tưởng của mình” thì cần gì đến ban bệ, nọ kia...
*“Hòa hợp TKK”, cái tên nghe rất trừu tượng! Cụ thể công việc của công ty là gì, thưa ông?
“Hòa
hợp TKK” - đơn giản là “Thụy Kha khờ (dại)”. Công ty luôn làm những câu
chuyện âm nhạc đích thực, để cân bằng với dòng nhạc thịnh hành hiện
nay. Là dinh dưỡng cho một luồng chảy cho âm nhạc đích thực. Từ khi mở
công ty đến nay là 12 năm thì mỗi năm TKK đều đóng góp một
chuyện có ích cho âm nhạc.
chuyện có ích cho âm nhạc.
Ngay
từ năm 2001, TKK đã đưa dàn nhạc giao hưởng ra biểu diễn ngoài trời tại
Trung tâm triển lãm Giảng Võ (Hà Nội), kết hợp cả nhạc trẻ vào trong
đó. Đây cũng là một trong những ý tưởng của công ty - giao hòa giữa các
dòng nhạc.
Đầu tư cho phim Chuyện của Pao - mời quay phim nước
ngoài vào Việt Nam. Có thể nói đây là trường hợp đầu tiên mời người nước
ngoài vào quay phim ở Việt Nam. Mời nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo làm âm
nhạc...
Bắt tay với Trường nghệ thuật MECA (thành phố Houston,
Texas, Mỹ) đưa hơn 20 người về Việt Nam biểu diễn từ thiện. Đại lễ Phật
đản Liên Hiệp Quốc 2008 tổ chức một dàn hợp xướng với 500 người biểu
diễn.
Làm cuốn sách 1.000 ca khúc Thăng Long - Hà Nội nhân Hà Nội
kỷ niệm 1.000 năm. Tác giả cuốn sách này sẽ được trao tặng kỷ lục quốc
gia về người chọn được nhiều bài hát về Hà Nội nhất vào cuối tháng 8 này
tại Khách sạn Rex, TP. Hồ Chí Minh.
TKK luôn có những ý tưởng để
đưa âm nhạc chính thống đến với người nghe nhiều hơn. Chương trình “Hẹn
hò” giới thiệu ba nhạc sĩ Phạm Duy, Văn Cao, Trịnh Công Sơn diễn ra cách
đây không lâu là một ví dụ. Hiện TKK đang tổ chức dự án Thế giới hát
tiếng Việt.
*Ông có thể cho biết cụ thể dự án ấy như thế nào không?
Kêu gọi trên mạng internet ở rộng khắp thế giới. Sau đó, sẽ tính đến chuyện tinh tuyển, tổ chức biểu diễn.
*Thưa, như thế có quá sức không với một công ty nhỏ bé của ông?
Tất nhiên, đó là ý tưởng của TKK, nhưng chúng tôi sẽ phải huy động các tổ chức khác cùng thực hiện.
*Ông
nói, công ty chuyên làm những câu chuyện âm nhạc đích thực. Thế có
nghĩa là còn có những dòng âm nhạc khác được ông cho là không đích thực?
-
Hiện nay, bên cạnh âm nhạc truyền thống từ thời tiền chiến đến nay vẫn
tuôn chảy, còn có một dòng âm nhạc nữa mà người ta hay gọi là “thị
trường”, nhưng tôi thì thích dùng từ “thịnh hành” hơn. Đấy là sự xuất
hiện rất tự nhiên của đời sống hôm nay.
Tất cả những người làm âm
nhạc quen với các dòng nhạc cổ điển, tiền chiến hay cách mạng đều ngỡ
ngàng vì họ không thể nắm bắt được hiện thực, không lý giải được tại sao
chỉ có vài câu hát với ca từ rất đơn giản lại thu hút được một lượng
khán giả lớn.
Dòng âm nhạc này có tác động rất khác nhau giữa
những người sống ở các thời đại khác nhau và nó nghiêng về vấn đề giải
trí, thích hợp với giới trẻ hiện nay, không muốn nhắc lại những quá khứ
đau đớn, muốn có một tình cảm mới.
Âm nhạc thịnh hành có ưu điểm
là đến rất nhanh với lớp trẻ nhưng lại thiếu đi điều mà lâu nay người ta
vẫn nói đó là vấn đề thẩm mỹ.
*Theo ông, như thế thì có nguy hiểm không, nếu như thẩm mỹ của các thế hệ sau, vì thế mà sẽ bị lệch lạc đi?
Âm
nhạc thịnh hành làm cho con người ta phải có suy nghĩ mới lên. Nhưng
chỉ thế thôi, bởi khi lớn tuổi hơn, người ta sẽ có thời gian nhìn lại.
Không thể đánh đồng những nhạc sĩ của thời trước với những nhạc sĩ của
dòng nhạc thịnh hành được.
Điều này chỉ có thể làm xoa dịu cho
một lớp trẻ hết sức vô tư, không biết gì đến quá khứ. Mặt khác, chính vì
sự thiếu chuyên môn của dòng nhạc này nên bên cạnh một bộ phận giới trẻ
thích, vẫn có một bộ phận tìm về với các tác phẩm âm nhạc truyền thống.
*Tuy
vậy, có vẻ như dòng nhạc thịnh hành này vẫn gây lo ngại cho nhiều người
trong giới chuyên môn, đặc biệt là giới phê bình âm nhạc - bởi họ cho
rằng thẩm mỹ kém, đáp ứng thị hiếu tầm thường... Quan điểm của ông thế
nào?
- Phải nói thật, trong tư duy của tôi, nước ta chưa có
nhà phê bình âm nhạc, bởi vì họ chỉ mang những điều đã được học hành áp
dụng vào những chỗ không đồng thời, không đồng pha. Tôi cho rằng, đã là
nghệ thuật thì kiểu gì cũng phải trở về đích thực.
Giống như cha
mẹ nào cũng lo lắng cho những đứa con nghịch ngợm của mình, nhưng rồi
cuối cùng, đứa nào cũng khẳng định sự nghiệp của nó. Chỗ này chúng ta
góp một vài câu, một vài tác phẩm, chỗ kia cũng thế... tất cả điều đó
làm nên nội lực của dân tộc.
Nếu dân tộc đã mạt thì tất cả các
điều đó sẽ mạt. Không có âm nhạc nào có thể cứu vãn được một dân tộc cả.
Nhưng âm nhạc Việt Nam đã từng góp phần giúp Việt Nam thắng Mỹ thì tôi
tin tưởng rằng không bao giờ âmnhạc Việt Nam thua kém trong tương lai.
Tôi
rất tự hào hiện nay có những nhạc sĩ trẻ đang đi trên con đường nối
tiếp các nhạc sĩ phía trước bằng những tác phẩm rất lớn. Ví dụ Trần Mạnh
Hùng với các ca khúc và giao hưởng: Giấc mơ màu lá, Lệ Chi viên, Việt Anh - người đã có những ca khúc rất đẹp Không còn mùa thu, Dòng sông lơ đãng, Mưa phi trường; các giao hưởng Khúc tưởng niệm, Vàng son. Hay những ca khúc của Lê Minh Sơn, Đỗ Bảo, Quốc Bảo, Võ Thiện Thanh, Giáng Son...
Mỗi
một thời đại có một số gương mặt như thế là quá hay rồi. Họ đều là
những người nối được quá khứ. Có một thực tế là ngày nay truyền thông
quá lan tràn, buộc người ta phải nghe quá nhiều thứ. Ngày xưa chỉ có một luồng thôi, còn bây giờ là đa kênh. Đó cũng chính là sự thử thách cho người nghe.
quá lan tràn, buộc người ta phải nghe quá nhiều thứ. Ngày xưa chỉ có một luồng thôi, còn bây giờ là đa kênh. Đó cũng chính là sự thử thách cho người nghe.
*Vậy Nguyễn Thụy Kha là ai nếu như ông nói là ở
nước ta chưa có nhà lý luận phê bình âm nhạc đích thực, trong khi mọi
người vẫn gọi ông là nhà phê bình?
Có lẽ đó là do mọi người
thấy tôi hay viết dạng đó thì gọi thế. Tôi chẳng có bằng cấp gì về lý
luận phê bình âm nhạc mà chỉ viết theo gợi ý của cụ Văn Cao thôi. Cách
đây mấy chục năm, cụ đã nói với tôi: “Viết đi, cảm nhận như thế nào thì
viết như thế, dùng kiến thức, hiểu biết của mình mà viết...”. Và thế là
“Nửa thế kỷ ca khúc Việt Nam”, “Những gương mặt âm nhạc thế kỷ”, “Huy
Du”, “Nguyễn Thiện Đạo, nhạc sĩ bị giời đày”... lần lượt ra đời.
Còn
những người có bằng cấp, họ được đào tạo cẩn thận, tôi nghĩ rằng đó là
một sự phí phạm, đào tạo sai. Đa số chỉ nói những câu chuyện rất vớ
vẩn trong học thuật và chẳng biết gì về đời sống này, bản thân họ cũng không muốn dấn thân, không biết ai vào với ai, nói về từng con người đều rất ấp úng vì họ không có tình yêu.
vẩn trong học thuật và chẳng biết gì về đời sống này, bản thân họ cũng không muốn dấn thân, không biết ai vào với ai, nói về từng con người đều rất ấp úng vì họ không có tình yêu.
Để làm được lý luận phê bình
thì phải có tình yêu với cái nghề của mình, với các tác phẩm, với đồng
nghiệp của mình. Số đó rất trống vắng. Hiện nay, tôi cho rằng chỉ có một
vài người có tình yêu ấy, ví dụ như Nguyễn Thị Minh Châu...
Nói
ra thì những người khác sẽ “xù lông” lên, nhưng thử hỏi họ có một công
trình nào không (có thể chỉ qua một tập sách thôi chẳng hạn), rồi sau đó
chúng ta cùng đánh giá thì biết ngay họ là ai.
Tôi cũng đang
trông chờ vào một số người trẻ, mong có vài người có thể dấn thân như
tôi, có thể đỡ đần những công việc mà tôi đang làm. Hiện nay, rất ít
người viết về âm nhạc bác học ở Việt Nam.
*Nhiều người lo ngại
rằng, âm nhạc đương đại Việt Nam hiện nay không có bản sắc riêng và đó
cũng là trở ngại cho việc đưa ra với thế giới. Ông có nghĩ như vậy
không?
- Tôi cho rằng, hành trình đưa bản sắc dân tộc vào tân
nhạc Việt Nam được bắt đầu từ đầu thế kỷ XX và hiện nay vẫn tiếp tục.
Đầu thế kỷ trước, âm nhạc truyền thống Việt Nam đứng trước một ứng xử
thật tình thế =với âm nhạc phương Tây. Khi ấy, chèo truyền thống rời
chiếu làng sân đình ra thành thị biến thành chèo Văn Minh và sau đó là
chèo Cải Cách.
Ca trù thì co cụm, tồn tại như một thách thức với
âm nhạc châu Âu, cũng làm cho nhiều người phương Tây phải kính nể. Tuồng
cũng hoàn thiện và phát triển, đã từng biểu diễn tại hội chợ Thuộc địa
tại Paris khiến cho nhạc sĩ trường phái ấn tượng Claude Debussy cực kỳ
ngạc nhiên và khâm phục.
Ca Huế thì phát triển vào đất Quảng trở
thành hò Quảng, vào đến Đồng bằng sông Cửu Long thì biến thành đờn ca
tài tử. Từ đó, phát triển thành ca kịch cải lương. Đàn nhạc cải lương đã
khoét lõm phím cây guitare Tây Ban Nha, bỏ đi một dây và định âm lại
năm dây còn lại theo ngũ cung: Hò, xừ, xang, xê, cống. Đó là cuộc đồng
hóa ngược của kẻ bị xâm lược với kẻ xâm lược...
Sau phong trào
“lời ta, điệu Tây” là đến phong trào “cải cách”. Tân nhạc Việt Nam hoài
thai và bắt đầu có tờ khai sinh là việc báo Ngày nay số ra ngày
31/7/1938 cho in bài hát Bình minh của Nguyễn Xuân Khoát, lời của Thế Lữ.
Rồi
khi bắt đầu thay đổi từ những bản ký âm theo nốt của phương Tây trên
những dòng kẻ, các nhạc sĩ Việt Nam đã ý thức ngay việc giữ gìn và thể
hiện bản sắc dân tộc trong những sáng tác của mình.
Đó là một thực
tế rất đáng trân trọng, là bản tân nhạc Việt Nam đã cho thấy sự cống
hiến của những nhân cách, những nhóm sáng tạo khiến chúng ta luôn cảm
thấy an lòng. Họ đã giữ gìn bản sắc dân tộc trong tân nhạc như giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Việt từ chữ Nôm sang mẫu tự Latin.
*Cũng
bởi mỗi khi có ai trong giới văn nghệ sĩ mất, chỉ cần gọi điện cho ông
và chỉ một hai tiếng sau là đã có bài “điếu” để đăng báo rồi, nên nhiều
người hay nói vui với nhau: “Nguyễn Thụy Kha là chuyên gia khóc thuê”.
Ông có tự ái không về cái danh “chuyên gia” này?
Có người độc
miệng còn ví tôi như con quạ chuyên rỉa... ấy chứ. Tôi chẳng quan tâm,
và vì thế cũng chẳng tự ái. Viết về một con người, cũng giống như một
bài phê bình, ngoài kiến thức, nhất định phải có một tấm lòng.
Tại
sao rất nhiều người cũng sống cùng thời với tôi mà lại không quan tâm
đến những người sống xung quanh mình? Số thời gian và thậm chí cả kinh
phí tôi từng chia sẻ với từng con người đó phải như thế nào chứ?
Tôi
cho rằng những bài viết của tôi là một cây hương văn hóa để tưởng nhớ
đến họ. Tất cả những nhạc sĩ lớn nào mất đi tôi đều có bài viết cả, đôi
khi
không chỉ ở một tờ báo...
không chỉ ở một tờ báo...
*Nghe nói, ông đã từng là
thiếu tá trong quân đội, vậy điều gì đã khiến một ông thiếu tá trở thành
một người chuyên nghiệp trong giới văn nghệ sĩ, thưa ông?
Tôi
là người Hải Phòng. Học Đại học Kỹ thuật thông tin liên lạc, học xong
gia nhập quân đội và công trình lớn nhất mà tôi đóng góp trong thời kỳ ở
quân đội là công trình thiết kế đường dây thông tin quân sự xuyên
Trường Sơn để đánh Buôn Mê Thuột. Trong lúc làm công trình ấy và tham
gia vào các chiến dịch, tôi chứng kiến sự hy sinh của những đồng đội.
Đến
30/4/1975, tôi nhận ra rằng mình có nhu cầu làm nhạc, làm thơ, viết
báo, thậm chí làm cả điện ảnh... như bây giờ - để “giải tỏa” những tình
cảm, tâm trạng của mình. Tôi phục viên bằng một lý do rất đơn giản,
trong thời Đổi mới và mở cửa, tôi có viết một bài thơ in trên tạp chí
Sông Hương, nói về tình trạng xã hội lúc đó.
Sau này, tạp chí
Sông Hương bị đóng cửa, người ta nói là có “góp công” của bài thơ ấy.
Đơn vị buộc tôi phải ra quân, vì không có cách nào khác cả. Từ đó đến
nay đã hai mươi ba năm rồi. Hai mươi ba năm không có lương, nhưng nhờ
hai mươi ba năm ấy mà tôi có số sách - xếp chồng lên nhau cao gần bằng
tôi, cộng với một sự thanh thản.
Khi thành lập công ty này, tôi
cũng không nghĩ là làm giàu mà chỉ hy vọng là đủ sống để làm những việc
mà mình yêu thích, tái tạo sức lao động.
Hãy nuôi tôi sống để tôi
làm các việc khác có ích hơn. Bao nhiêu năm nay tôi vẫn sống trong một
cái buồng ở một con phố trung tâm chật chội, đông đúc. Rất nhiều người
thay đổi được nhà to và họ tự hiểu là họ thay đổi được nhờ cái gì.
*Lại nói về thơ, ông có hay làm thơ thế sự nữa hay không?
Thực
ra, tôi thích thơ lãng mạn, trữ tình hơn. Vì mình nhìn thấy con người
có cuộc sống vượt qua thế sự, sự chán nản, sự yêu thương của họ. Năm
1986, tôi có dịp được làm nhạc cho bộ phim về Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Do
vậy, khi bài thơ ấy của tôi ra đời (năm 1989) thì ông có gọi tôi lên,
ăn cơm, nói chuyện... Tôi nhận ra, chỉ nói một lần về thế sự, thế là đủ
và đó cũng là sự trưởng thành của chính mình.
*Trong suốt quá
trình hai mươi ba năm không có lương ấy, có lúc nào ông cảm thấy rất mệt
mỏi, đặc biệt là giữa lúc xã hội đang phát triển rất nóng như hiện nay?
-Chưa.
Nhưng điều này phải cảm ơn người vợ của tôi. Vì trong lúc tôi bị “đứng
đường”, không có việc làm, không có lương thì cô ấy lại cảm thấy “như
thế mới là chồng mình”, cô ấy rất vui vẻ.
Thời kỳ đó báo chí lại
đang phát triển, cứ mỗi ngày tôi viết một bài báo là đủ sống rồi. Chính
thời gian đó tôi lại cảm thấy rất vui, vì đủ sống và không phụ thuộc, có
thời gian giao lưu với bạn bè. Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn như thế.
Cũng
có lúc tôi phải vay tiền bạn bè, thậm chí là vay ngân hàng, nhưng không
sợ vì biết rằng mình vẫn có thể trả được nợ. Bởi trong mình vẫn còn
tràn đầy sáng tạo. Sáng tạo ở mình bây giờ cũng chưa được coi trọng lắm,
nhưng ít nhất vẫn có thể sống được. Thêm nữa, hai mươi ba năm nay không
bị ai mắng và không bị nhận những sự giận dữ vô cớ ở ngoài và được nói
thật lòng.
*Trong các vai trò là nhà thơ, nhà báo, nhạc sĩ, nhà phê bình âm nhạc, doanh nhân - ông thích nhất vai nào?
- Việc nào cũng thích. Tôi là người có thể phân thân.
*Nhưng như thế, công việc liệu có hiệu quả không, thưa ông?
-
Nhiều người nghĩ tôi già rồi mà còn ham hố. Hoặc cũng có nhiều người
nghĩ rằng “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Nhưng tôi thì cho rằng quan
trọng là nội lực và sự ham sống của mình. Khi ở vai nhà doanh nghiệp thì
đừng có đùa với tôi về kiểm soát tài chính.
Trước một sự cập
nhật đời sống tôi có thể viết ngay một bài báo, đôi khi trong sự cô đơn
tôi có thể viết một bài thơ và đôi khi trong một sự hân hoan tôi lại
viết một hợp xướng. Và như thế, tôi có cảm giác mình được sống rất nhiều
chiều, đó là một sự sung sướng.
Tôi vẫn nói đùa, tôi làm báo để
sống, làm nhạc để vui, làm thơ để chết và làm kinh tế để hồi sinh. Có
người hỏi tôi mỗi năm làm được bao nhiêu tiền, tôi trả lời rằng lãi của
tôi không thể tính bằng tiền. Nó là vô giá... tôi khẳng định thế.
*Thời
gian gần đây, người ta cũng thấy ông hay xuất hiện trên truyền hình,
trong các chương trình bàn luận xung quanh các vấn đề âm nhạc, thơ... Vì
thế mà người ta cho rằng ông ham hố chăng?
- Lý do tôi không
từ chối bất cứ cuộc trả lời phỏng vấn hay thậm chí là một bạn trẻ bốc
điện thoại lên hỏi, là vì đó chính là cơ hội để tôi được chia sẻ những
điều tôi đã biết, đã hiểu cùng mọi người.
*Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện. Chúc ông luôn giữ được nội lực sáng tạo của mình!
-----------------------------------------------